Ở thời Lý, chùa của triều đình được dựng ở nhiều nơi. Sử sách cho biết ở trên đất kinh đô có rất nhiều chùa do triều đình dựng từ thời Lý Công Uẩn. Song, trong đó một kiến trúc độc nhất vô nhị, đó là chùa Một Cột.
Thực ra, chùa Một Cột không phải chỉ riêng người Việt mới có, tuy nhiên nếu dựa vào niên đại khởi dựng thì hiện nay chùa Một Cột tạm được coi là sớm nhất.
Chùa Một Cột hay Chùa Mật (gọi theo Hán-Việt là Nhất Trụ tháp 一柱塔), còn có tên khác là Diên Hựu tự (延祐寺) hoặc Liên Hoa Đài (蓮花臺, Đài Hoa Sen), là một ngôi chùa nằm giữa lòng thủ đô Hà Nội. Đây là ngôi chùa có kiến trúc độc đáo ở Việt Nam.
Lịch sử
Chùa Diên Hựu, tức chùa Một cột.Chùa Một Cột được vua Lý Thái Tông cho khởi công xây dựng vào mùa đông tháng mười (âm lịch) năm Kỷ Sửu 1049, niên hiệu Sùng Hưng Đại Bảo thứ nhất.
Nhưng theo cuốn Hà Nội-di tích lịch sử và danh thắng, nhóm các nhà sử học Đinh Xuân Lâm, Doãn Đoan Trinh, Dương Trung Quốc, Nguyễn Quang Ân, Nguyễn Thanh Mai, Đàm Tái Hưng tiến hành nghiên cứu văn bia dựng tại chùa năm Cảnh Trị thứ 3 (1665) đời vua Lê Huyền Tông do Tỳ khưu Lê Tất Đạt khắc ghi, thì thấy rằng: tại vị trí chùa Một Cột ngày nay, vào thời nhà Đường (năm Hàm Thống thứ nhất) một cột đá trên có ngôi lầu ngọc (với tượng Phật Quan Âm ở trong) đã được dựng giữa một hồ nước vuông. Vua Lý Thái Tông thường đến cầu nguyện, khi được hoàng tử nối dõi liền tu sửa lại thành chùa, xây thêm một ngôi chùa bên cạnh chùa Một Cột (cách 10 m về phía Tây Nam) và đặt tên cả quần thể chùa này là Diên Hựu tự (với nghĩa là “phúc lành dài lâu” hay “phước bền dài lâu”).
Năm 1954, quân đội Viễn chinh Pháp trước khi rút khỏi Hà Nội đã cho đặt mìn để phá chùa Một Cột. Báo Tia Sáng ngày 10 tháng 9 năm 1954 đưa tin “…, chùa Một Cột di tích liệt hạng của Hà Thành đã sụp đổ sau một tiếng nổ long trời lở đất…”
Sau khi tiếp quản thủ đô, Bộ Văn hóa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tiến hành trùng tu lớn chùa Một Cột (chùa Diên Hựu), xây dựng lại chùa Một Cột theo kiến trúc cũ. Chùa Một cột chúng ta thấy hiện nay được sửa chữa lại năm 1955 do Kiến trúc sư Nguyễn Bá Lăng đảm nhiệm.
Chùa Một Cột chỉ có một gian nằm trên một cột đá ở giữa hồ Linh Chiểu nhỏ có trồng hoa sen. Truyền thuyết kể lại rằng, chùa được xây dựng theo giấc mơ của vua Lý Thái Tông (1028-1054) và theo gợi ý thiết kế của nhà sư Thiền Tuệ. Vào năm 1049, vua đã mơ thấy được Phật bà Quan Âm ngồi trên tòa sen dắt vua lên tòa. Khi tỉnh dậy, nhà vua kể chuyện đó lại với bày tôi và được nhà sư Thiền Tuệ khuyên dựng chùa, dựng cột đá như trong chiêm bao, làm tòa sen của Phật bà Quan Âm đặt trên cột như đã thấy trong mộng và cho các nhà sư đi vòng quanh tụng kinh cầu kéo dài sự phù hộ, vì thế chùa mang tên Diên Hựu.
Hằng năm cứ đến ngày 8 tháng 4 âm lịch, vua lại tới chùa làm lễ tắm Phật. Các nhà sư và nhân dân khắp Kinh thành Thăng Long cùng dự lễ. Sau lễ tắm Phật là lễ phóng sinh, vua đứng trên một đài cao trước chùa thả một con chim bay đi, rồi nhân dân cùng tung chim bay theo trong tiếng reo vui của một ngày hội lớn.
Đến năm 1105, vua Lý Nhân Tông cho sửa ngôi chùa và cho dựng trước sân hai tháp lợp sứ trắng. Năm 1108, Nguyên phi Ỷ Lan sai bày tôi đúc một cái chuông rất to, nặng đến một vạn hai nghìn cân, đặt tên là “Giác thế chung” (chuông thức tỉnh người đời). Đây được xem là một trong Tứ đại khí – bốn công trình lớn của Việt Nam thời đó – là: tháp Báo Thiên, chuông Quy Điền, vạc Phổ Minh và tượng Quỳnh Lâm. “Giác thế chung” đúc xong nặng quá không treo lên được, để dưới mặt đất thì đánh không kêu. Người ta đành bỏ chuông xuống một thửa ruộng sâu bên chùa Nhất Trụ, ruộng này có nhiều rùa đến ở do đó có tên là Quy Điền chuông (chuông ruộng rùa). Đến thế kỷ 15, giặc Minh xâm lược, chiếm thành Đông Quan (Hà Nội). Năm 1426 Lê Lợi đem nghĩa quân Lam Sơn ra đánh, vây thành rất gấp. Quân Minh thiếu thốn vũ khí đạn dược, tướng Minh là Vương Thông bèn sai người đem phá chuông Quy Điền lấy đồng. Quân Minh thua trận, nhưng chuông Quy Điền thì không còn nữa.
Văn bia tháp Sùng thiện diên linh (chùa Đọi, Hà Nam), năm 1121 viết: “Do lòng sùng kính đức Phật và dốc lòng mộ đạo nhân quả (đạo Phật) nên hướng về vườn Tây Cấm nổi danh (ngôi vườn ở phía tây cấm thành Thăng Long đời Lý) mà xây ngôi chùa sáng Diên Hựu theo dấu vết chế độ cũ, cùng với ý mưu mới của nhà vua (ý nói: theo dấu vết lề lối xây dựng chùa đời Lý Thánh Tông, có thêm ý mới của Lý Nhân Tông mà chữa lại chùa đẹp hơn trước)”.
Đến thời nhà Trần, chùa đã không phải là ngôi chùa nhà Lý nữa vì sách cũ đã ghi: Năm 1249, “…mùa xuân, tháng giêng, sửa lại chùa Diên Hựu, xuống chiếu vẫn làm ở nền cũ…”.
Chùa Một Cột được trùng tu vào khoảng những năm 1840-1850 và vào năm 1922. Đài Liên Hoa chúng ta thấy hiện nay được sửa chữa lại năm 1955 do Kiến trúc sư Nguyễn Bá Lăng đảm nhiệm, sau khi bị đặt mìn giật sập bởi toán lính công giáo của linh mục Lê Hữu Từ và Hoàng Quỳnh vào ngày 10 tháng 9 năm 1954.
Thiền sư Huyền Quang (1254-1334) có một bài thơ về chùa Một Cột như sau:
延祐寺上方秋夜一鐘闌 (蘭)月色如波楓樹丹鴟吻倒眠方鏡冷塔光雙峙玉尖寒萬緣不擾城遮俗半點無憂眼放寬參透是非平等相魔宮佛國好生觀
Diên Hựu tự Thượng phương thu dạ nhất chung lan Nguyệt sắc như ba phong thụ đan Si vẫn đảo miên phương kính lãnh Tháp quang song trĩ ngọc tiêm hàn Vạn duyên bất nhiễu thành giá tục Bán điểm vô ưu nhãn phóng khoan Tham thấu thị phi bình đẳng tướng Ma cung Phật quốc hảo sinh quan
Chùa Diên Hựu (Nguyễn Huệ Chi dịch) Đêm thu chùa thoảng tiếng chuông tàn Phong đỏ, trăng ngời, sóng nguyệt lan In ngược hình chim, gương nước lạnh Sẫm đôi bóng tháp, ngón tiên hàn. Muôn duyên chẳng vướng: xa trần tục Một mảy nào lo: rộng nhãn quan Thấu hiểu thị phi đều thế cả Dầu ma dầu Phật, chốn nào hơn?
Cạnh chùa Một Cột ngày nay còn có một ngôi chùa có cổng tam quan, với bức hoành phi ba chữ “Diên Hựu tự”, nguyên là công trình được dựng lần đầu tiên năm 1049, để mở rộng quy mô cho chùa Một Cột trong việc thờ cúng, tụng kinh Phật và sinh hoạt của các tăng ni (trong quần thể chùa Diên Hựu lúc đó). Kiến trúc còn lưu đến hiện nay của công trình này có niên đại khoảng nửa đầu thế kỷ 18 (đợt trùng tu năm 1847), phụ vào với chùa Một Cột.
Chùa Một Cột ngày nay cùng chùa Diên Hựu hiện đại (tức là quần thể chùa Diên Hựu xưa) được công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia đợt đầu tiên năm 1962.
Ngày 4 tháng 5 năm 2006, Tổ chức Kỷ lục Việt Nam đã xác lập chùa là “Kỷ lục Việt Nam” và đề cử đến Tổ chức Kỷ lục châu Á. Sau thời gian thẩm định để xác lập, ngày 10 tháng 10 năm 2012, tại Faridabad (Ấn Độ), Tổ chức Kỷ lục châu Á đã xác lập kỷ lục châu Á: “Ngôi chùa có kiến trúc độc đáo nhất” cho chùa Một Cột.
Kiến trúc
Theo tài liệu lịch sử, lối kiến trúc một cột có từ trước đời nhà Lý. Ở Hoa Lư, Ninh Bình trong ngôi chùa Nhất Trụ mà con gái vua Đinh Tiên Hoàng tu hành, có một cây cột đá cao, tám cạnh, khắc bài kinh Lăng Nghiêm, đề niên hiệu thời Lê Hoàn (981–1005). Phía trên cột là tòa sen chạm. Năm Long Thụy Thái Bình thứ năm đời Lý Thánh Tông (1058) có xây điện Linh Quang ở Thăng Long, phía trước điện dựng lầu chuông, một cột tám cạnh hình bông sen. Như vậy, trước khi xây chùa Một Cột, lối kiến trúc đó đã là một thực tế nghệ thuật cổ truyền.
Ngôi chùa có kết cấu bằng gỗ, trong chùa đặt tượng Phật bà Quan Âm để thờ. Năm 1105, vua Lý Nhân Tông cho mở rộng kiến trúc khu chùa có thêm hồ Linh Chiểu. Về sau, quy mô chùa Một Cột chỉ còn lại ngôi chùa nhỏ trên cột đá như hình ảnh hiện nay. Thực dân Pháp trước khi rút khỏi Hà Nội đã cho nổ mìn phá chùa. Tuy nhiên, chùa đã được trùng tu cơ bản như trước. Chùa Một Cột hiện nay bao gồm đài Liên Hoa hình vuông, chiều dài mỗi cạnh 3 m, mái cong, dựng trên cột cao 4 m (không kể phần chìm dưới đất), đường kính 1,2 m có cột đá là 2 khúc chồng lên nhau thành một khối.
Tầng trên của cột là hệ thống những đòn gỗ làm giá đỡ cho ngôi đài ở trên. Đài Liên Hoa có mái ngói, bốn góc uốn cong, trên có Lưỡng long chầu nguyệt. Trong quan niệm người Việt, rồng luôn là con vật linh thiêng, biểu tượng cho quyền uy, sức mạnh. Và hình ảnh “Lưỡng long chầu nguyệt” trên các mái đình đền, chùa chiền không chỉ biểu tượng cho sức mạnh thần thánh mà còn ẩn trong đó những giá trị nhân văn, phản chiếu trí tuệ, ước vọng của con người và nền văn minh cổ xưa. Ngày nay không có những cánh sen trên cột đá như đã nói đến trong bia văn thời nhà Lý, nhưng ngôi chùa dựng trên cột vươn lên khỏi mặt nước vẫn là kiến trúc độc đáo, gợi hình tượng một bông sen vươn thẳng lên khỏi ao. Ao được bao bọc bởi hàng lan can làm bằng những viên gạch sành tráng men xanh. Kiến trúc chùa xây dựng gần với kiến trúc nhà Hậu Lê.
Trong vườn chùa hiện có một cây bồ đề xum xuê từ đất Phật, do Tổng thống Ấn Độ Rajendra Prasad tặng nhân dịp Chủ tịch Hồ Chí Minh qua thăm Ấn Độ năm 1958.
Ngày nay, chùa Một Cột là một trong những điểm tham quan du lịch được rất nhiều du khách ghé thăm khi đặt chân đến Hà Nội.
Biểu tượng chùa Một Cột
Chùa Một Cột đã được chọn làm một trong những biểu tượng của thủ đô Hà Nội, ngoài ra biểu tượng chùa Một Cột còn được thấy ở mặt sau đồng tiền kim loại 5000 đồng của Việt Nam. Tại quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh cũng có một phiên bản chùa Một Cột. Ngoài ra, tại thủ đô Moskva của Nga cũng có một phiên bản chùa Một Cột được xây lắp tại Tổ hợp Trung tâm Văn hóa – Thương mại và Khách sạn “Hà Nội – Matxcova”.Chùa còn là biểu tượng cao quý thoát tục của con người Việt Nam.
LUẬN:
Chúng ta cũng có thể thấy bóng dáng chùa Một Cột như một mô hình ở chùa Tam Tạng của người Khơ me (Sóc Trăng).
Cố giáo sư Trần Quốc Vượng cho biết rằng trên đỉnh núi Bà Pênh ở Phnôm Pênh cũng có một dạng kiến trúc về hình thức gần với chùa Một Cột (?) nhưng nhỏ hơn.
Không thể nghĩ rằng người Khơ me đã lấy mẫu từ chùa Một Cột đời Lý, mà tạm có thể coi như đó là một “mẫu số chung” về chùa trong khu vực này.
Một “gốc gác” để chúng ta tạm có thể suy nghĩ về chùa Một Cột qua một giả thiết làm việc là: Chùa Một Cột có thể ra đời từ những thiên thạch trụ (hay cây hương) đặt tại các ngôi chùa.
Trong những cây hương đó có những cây lộ thiên, nhưng cũng có những cây hương mà phía trên đỉnh của nó mang dáng dấp lồng đèn (ví dụ cây hương đá ở chùa Linh Sơn – Duy Tiên – Hà Nam), một chuẩn mực khác là cây hương ở chùa Bồng Lai (Đan Phượng – Chèm – Hà Nội).
Tuy các cây Hương này là sản phẩm của thời hậu Lê (cuối thế kỷ 17 đầu thế kỷ 18), nhưng bằng tư duy dân tộc học nghệ thuật cho phép chúng ta suy ngược về các thời kỳ trước.
Chùa Một Cột được nhiều người coi là niềm tự hào của dân tộc, thậm chí coi đó như một biểu tượng gắn với sự tồn tại của bản sắc văn hóa dân tộc.
Một số nhà khoa học, như cụ Nguyễn Đăng Thục, trong khi luận về phái Thảo Đường đã coi cột đá của ngôi chùa này như một biểu tượng của Linga.
Ngô Văn Doanh cùng Nguyễn Duy Hinh ngờ rằng buổi đầu chùa Một Cột không hẳn nằm tại vị trí này và nhìn chùa như một cây tháp theo văn hóa Phật giáo Ấn Độ.
Ngoài ra còn một vài ý kiến khác nữa, song suy cho cùng, có thể đấy là những ý kiến rất mới, chưa hợp với nhận thức quen thuộc đã có của người Việt. Vì vậy tạm thời chúng ta chỉ có thể hiểu biểu tượng kiến trúc này theo văn bia chùa Long Đọi.
Nội dung bia có đoạn ghi rõ ràng như sau: “Tích sùng Hoàng Giác: Đốc mộ thắng nhân. Hướng Tây- cấm chi danh viên; Xưởng Diên- Hựu chi quang tự. Tích tòng tiền chi cứu chế, xuất thánh ý chi tân mưu. Tạc Linh Chiểu chi phương trì, nhị trì trung dũng nhất thạch cán. Cán thượng phách thiên diệp liên hoa, hoa thượng nhi kiều an cam điện. Điện trung tọa kim tướng chi năng nhân (1)
Dịch: “Tôn sùng đạo Phật, hâm mộ thắng nhân, mở chùa Diên Hựu, ở tại vườn Tây. Dấu vết theo quy mô thửa trước lo toan do thánh ý ngày nay. Đào ao thơm Linh Chiểu, giữa ao trồi lên một cột đá, trên cột có một đóa hoa sen nghìn cánh xòe ra. Trên hoa dựng ngôi đền đỏ sẫm. Trong đền đặt một pho tượng sắc vàng” (6)
Qua bia, có ít nhất bốn chi tiết chúng ta phải quan tâm tới, đó là chùa dựng ở hồ Linh Chiểu, trên một cột đá, đỉnh cột có bông sen nghìn cánh, trên bông sen có tòa nhà nhà đỏ thẫm, trong đó có tượng Phật mình vàng.
Tạm có thể hiểu như sau:
Về cột đá: Buổi xa xưa, khi con người đã vượt qua thời đồ đá, đồ đồng các thế hệ sau không còn mối liên hệ nào với các công cụ này nữa. Tới khi vì một lý do nào đó con người tìm lại công cụ này, họ không biết những thứ đó từ đâu ra, không tin là của con người, cũng không có thấy trong tự nhiên nên đã gán cho là của thần linh, để chúng trở nên có một sức mạnh thần kỳ.
Dần dần, bằng liên tưởng họ đã cho các chất liệu tương đồng cũng chứa một sức linh nhất định, để chúng được dùng nhiều trong các đồ thờ. Như vậy, cột chùa Một Cột (Hà Nội) cũng như ở Hoa Lư, Ninh Bình tự nhiên đã có sẵn một nguồn khí thiêng nào đó, hoặc tự nó có khả năng dẫn sinh khí từ tầng trên xuống tầng dưới.
Bông sen nghìn cánh: Không rõ ý nghĩa tọa thiền ở dưới thời Lý đã ảnh hưởng tới xã hội như thế nào. Song, tới nay (về tọa thiền) tạm có thể hiểu được đó là hình thức gắn với một hình thức tu hành, bằng cách tác động đến các trung tâm lực ở trên cơ thể kẻ hành giả, nhờ đó mà khai mở được trí tuệ từ thấp đến cao.
Khi tọa thiền, có nghĩa là đánh thức con hỏa xà, thần xà (kundalini) thức dậy, để rắn thần theo kết quả tu chứng của con người mà ngoi lên khai mở các luân xa ở các trung tâm lực.
Tại chính đốt xương cùng là nơi của luân xa Muladhara, khi được khai mở sẽ tạo cho thể phách thể vía lưu chuyển lẹ làng, nơi đây tượng bằng bông sen bốn cánh màu đỏ.
Tới luân xa Svadischtana, nơi bộ phận sinh dục, khi được mở con người có thể hiểu được quá khứ của mình, tượng bằng bông sen sáu cánh màu đỏ thẫm.
Sau đó rắn thần lại ngoi lên trung tâm lực thứ ba là Manipura, ở đan điền, lúc đó kẻ hành giả có khả năng biết được quá khứ của người khác và chi phối đến nhận thức của họ, ở đây tượng bằng bông sen mười cánh màu tím.
Rắn thần leo lên trung tâm lực thứ tư- Anahata, ở nơi trái tim, tượng bằng bông sen mười hai cánh màu hồng vang, lúc đó hành giả phát triển đại từ tâm, tức tha tâm thông (thương xót cả nhân loại).
Tiếp đến vị trí thứ năm tại hõm cổ, khai mở luân xa- Vishuda. Kẻ hành giả có khả năng nghe thấy những tiếng vọng từ muôn nơi- tức tiếng đau khổ của mọi chúng sinh để dùng pháp lực mà cứu vớt bằng bông sen mười sáu cánh màu xám (có nghĩa đạt được quả “thiên nhĩ thông” ), tiếp đến luân xa thứ sáu ở giữa sơn căn –Ajna, nơi con mắt thứ ba của Quan Âm tượng bằng bông sen hai cánh màu trắng.
Lúc này kẻ hành giả bằng trí tuệ có thể nhìn thấy được khắp nơi ngàn dặm, có nghĩa đạt được quả “thiên nhãn thông” và cuối cùng rắn thần ngoi lên đến tận đỉnh đầu và khai mở luân xa Sahasrara tức đạt tới quả “lậu tận thông”. Thông hiểu được toàn bộ to nhỏ, trước sau trong ngoài của tất cả mọi sự, mọi việc từ tế vi cho tới vô cùng vô tận. Tượng trưng bằng bông sen nghìn cánh màu xanh ánh vàng.
Với bông sen này cũng tượng cho trí tuệ Phật viên mãn, mà trong đạo Yoga (Ixlam) thường chỉ tượng bằng một từ mang đầy siêu lực huyền diệu, đó là A-V-M (úm).
Trong tạo hình của Phật giáo, hình tượng này được đồng nhất với vô kiến đỉnh tướng nằm ở vị trí cao nhất của nhục kháo (bướu trí tuệ của các đức Phật). Như vậy bông sen nghìn cánh của chùa Một Cột không chỉ mang ý nghĩa đơn giản là bông sen mà Quan Âm dẫn vua nhà Lý bước lên đó trong một giấc mơ, mà nó còn là biểu tượng của trí tuệ, của sự trường tồn, sự giải thoát qua nhận thức đậm chất trí tuệ để đi tới niết bàn. Mà niết bàn là vĩnh cửu gắn với ước vọng của đương thời về sự tồn tại của dân tộc, làm nảy sinh tên chùa Diên Hựu.
Về tòa nhà đỏ thẫm: Hiện nay chúng ta cũng không biết rõ nhà đó được kết cấu theo kiểu cách nào, song ít nhất có thể hiểu được màu đỏ là màu máu, từ thời nguyên thủy khi con người lấy công cụ có mũi nhọn đâm vào bất kể con vật nào, họ đều thấy chảy ra một chất màu đỏ, chất đỏ chảy hết thì con vật chết, vì vậy họ cho rằng màu đỏ là màu sinh khí, chất duy trì sự sống, dần dần họ đồng nhất màu đỏ với sinh khí của vũ trụ, với bầu trời và hạnh phúc muôn mặt.
Ví dụ trong những lễ hội cờ thần là biểu tưởng liên quan tới thần linh trên trời và đồng nhất với sinh khí, nên trung tâm của nó phải là màu đỏ. Đơn giản hơn trong những cuộc thông linh, đặc biệt là ở hiện tượng lên đồng thì khăn phủ điện dứt khoát cũng phải sử dụng màu đỏ.
Tượng Phật mình vàng: Ở Ấn Độ, vào thời cổ đại, màu vàng thường là áo của kẻ bị tội chết. Cho nên những nhà tu hành thường lấy áo màu vàng để mặc nhất là Phật giáo thường lấy áo màu vàng để biểu hiện cho kiếp tu với mọi dục vọng đều đã được diệt trừ.
Vì thế trong các ngôi chùa, tượng có màu vàng đều là hiện thân của vị thánh đã ở cõi niết bàn. Mặt vị bồ tát nào có màu hồng phấn là còn lăn lộn với thế gian để cứu độ. Mọi vị Phật đều có thân màu vàng là đã về cõi thường trụ, kể cả “niết bàn vô trụ xứ”. Vì thế tượng Phật mình vàng là để nói lên tính cao quý thoát tục và trí tuệ viên mãn của đức Phật.
Vậy theo ghi chép của bia Long Đọi, có thể tạm hiểu như sau:
Đây là một ước vọng đầy đầy tính triết học, sùng Phật cao độ ở dưới thời Lý. Với chùa Một Cột, ước vọng này được biểu hiện qua hình tượng như một điều nhắc nhở với “đấng cao viễn” rằng: Cầu mong đức Phật với trí tuệ viên mãn (bông sen nghìn cánh) hãy ban cho thế gian nguồn sinh khí tràn đầy (tòa nhà đỏ sẫm), truyền qua đất và nước để mọi chúng sinh trong cõi sa bà này được hưởng hạnh phúc.
Có thể, chúng ta nghĩ tới tinh thần đó xuất phát từ tư duy nông nghiệp, để cầu cho vụ mùa bội thu và đương nhiên cầu cho sự trường tồn của cả dân tộc cũng như của triều đình.