Trích từ Kinh Phật cho người tại gia
Sa môn Thích Nhật Từ soạn dịch
MỞ TÂM BỒ-ĐỀ
Bấy giờ trong hội Đại Tâm Địa quán, đức Phật Thế Tôn bậc thoát ba cõi, viên mãn thiền định, đạt Nhất thiết trí, Nhất thiết chủng trí, hóa độ rất nhiều các loại hữu tình. Sau khi thuyết giảng pháp môn Quán tâm, đức Phật nói với Bồ-tát Văn Thù và người có mặt những lời như sau.
– Này các đệ tử, nay ta dạy cách phát tâm bồ-đề, giúp cho mọi người hướng về giác ngộ, mau chứng được quả vô thượng chánh giác.
Bồ tát Văn-thù bạch đức Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Như Phật đã dạy: Quá khứ đã qua, tương lai chưa đến, hiện tại không dừng; tất cả tâm pháp có trong ba đời, vốn không thực thể, thì tâm bồ-đề dựa vào cái gì mà phát khởi được. Kính xin Thế Tôn vì giúp chúng sanh chặt bỏ lưới nghi, đạt đến bồ-tát thuyết giảng chánh pháp!”
TÀ KIẾN TẠI TÂM
– Này các đệ tử, tất cả tà kiến có mặt từ tâm. Muốn dứt trừ được sáu mươi hai kiến và sai lầm khác, ta khẳng định rằng tâm và tâm sở vốn không thực thể. Nhờ hiểu rõ được tính không thực thể của tâm, tâm sở, các loại tà kiến không còn chỗ nơi bám víu, nương dựa. Cũng như rừng sâu là nơi nương tựa của voi, sư tử, cọp, beo, chó sói… và nhiều thú dữ ẩn náu hại người; làm cho nhiều người sợ không vãng lai. Khi rừng bị phá, nhiều loại thú dữ không chỗ nương thân, có khi bị diệt. Tương tự như thế, rừng tâm đã hết, kiến chấp diệt trừ, an vui có mặt, giác ngộ hiện tiền.
KHÔNG CHẤP CÓ VÀ KHÔNG
Này các đệ tử, nguyên do ta giảng tính không thực thể của tâm, tâm sở, là nhằm giúp người chuyển hóa phiền não từ tâm sinh ra. Nếu chấp “không lý” là “có” cứu cánh, thì “không tính” ấy cũng là “không” nốt. Chấp “không” thành bệnh phải mau từ bỏ! Nếu chấp vào “không” cho là cứu cánh thì rơi vào chấp mọi vật không nhân, cũng như không quả, thời có khác gì “Thuận thế ngoại đạo” phủ định nhân quả. Này các đệ tử, như cây thuốc quý chữa lành các bệnh. Người bệnh phải uống mới hết bệnh tật. Khi bệnh hết rồi thì ngừng uống thuốc. Khi không có bệnh mà luôn uống thuốc đôi lúc thành bệnh. Tương tự như thế, để dứt chấp “có” nên dùng thuốc “không”. Khi hết chấp có thì không phải dùng tánh không này nữa. Dùng “không” trị “có” là một phương tiện. Chấp vào “lý không” còn nguy hại hơn chấp vào cái có. Hễ còn chấp dính là còn khổ đau.
HÃY NGỘ TỰ TÂM
Này các đệ tử, do nhân duyên ấy, uống thuốc “tánh không” để trừ tà kiến, tâm được tỉnh thức, hướng đến bồ đề, không có hai tướng. Tâm tự giác ngộ có bốn ý nghĩa, gồm hai tâm phàm và hai tâm thánh. Một là nhãn thức cho đến ý thức đều do nhân duyên nên “Tự ngộ tâm”. Hai là lìa tâm và tâm sở pháp; nhờ vào nguyên lý hòa hợp duyên cảnh nên “Tự ngộ tâm”. Hai tâm phàm này thích phát bồ-đề! Hai tâm Thánh hiền được hiểu như sau: Một là quán sát lý trí như thật, hai là quán sát nhất thiết cảnh trí. Hiểu được như thế là “tự ngộ tâm”.
QUÁN TÂM BỒ-ĐỀ
Bồ-tát Văn-thù bạch đức Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Tâm không hình tướng cũng không nơi chốn, lúc mới phát tâm, người phàm tu tập phải nương cái gì và quán thế nào?”Đức Phật dạy rằng: Này các đệ tử, quán tâm bồ-đề như vầng trăng tròn, sáng soi trên không. Để được bất thoái, cần phải thiền tọa, thực tập chánh niệm ở nơi thanh vắng, bắt ấn kim cương, quán ánh mặt trăng rồi suy nghĩ rằng: “Vầng trăng sáng soi không bị giới hạn”. Trăng ví cho tâm, tâm chính là trăng, không nhiễm bụi trần, không chút vọng tưởng, vốn luôn thanh tịnh, nhờ đó vững tiến đến sự giác ngộ. Khi tay bắt ấn, tâm trì thần chú “đại bồ đề tâm”, cũng còn gọi là “chân ngôn thanh tịnh” của các Bồ-tát lúc mới phát tâm. Câu chân ngôn này có uy đức lớn, giúp người tu hành vững tiến không lùi trên đường giải thoát.
Này các đệ tử, khi người tu hành quán chiếu vầng trăng thì nên giữ gìn tâm thật đoan chính, chánh niệm, tỉnh thức, không bị rung động. Đây còn gọi là “Bồ-tát chánh quán đại bồ-đề tâm thành Phật tam muội”. Hàng phàm phu nào tu pháp quán này có thể chuyển hóa năm tội vô gián, thập ác, bất tín và bốn tội nặng, nhờ đó được năm Tam-ma-địa môn, bao gồm như sau: tam-muội sát-na, tam-muội vi trần, tam-muội sợi trắng, tam-muội khởi phục, tam-muội an trụ.
TU CÁC TAM-MUỘI
Thế nào gọi là tam-muội sát-na? Hành giả tạm thời an trụ ý niệm vào vầng trăng tròn, cũng như thân khỉ, khi buộc vào trụ, không đi xa được, cũng không dừng được, khi đói khát quá, mới nghỉ chốc lát. Thực tập quán tâm, an trụ chánh định chỉ trong chốc lát, thì được gọi là “sát-na tam-muội”.
Thế nào gọi là tam-muội vi trần? Hành giả tương ứng được một vài phần đối với chánh định, cũng như có người thường ăn đồ đắng trong nhiều ngày liền, khi nếm chút mật ở trên đầu lưỡi, sinh tâm vui mừng, mong được nhiều mật. Từ trong vị đắng mà được chánh định, hưởng chút an lạc thì được gọi là “tam-muội vi trần”.
Thế nào gọi là tam-muội sợi trắng? Từ thời vô thủy cho đến vị lai, hàng phàm phu nào trong nhiều sanh tử, vô minh tối thẳm, đạt được chánh định, như nhuộm vải đen, trong nhiều mảng đen thấy được sợi trắng nên được gọi là tam-muội sợi trắng.Thế nào gọi là tam-muội khởi phục? Những người tu hành quán tâm chưa rành, hoặc khéo thành lập hay chưa thành lập; chánh định như thế là còn cao, thấp nên được gọi là “tam-muội khởi phục” (nhô lên, xẹp xuống).
Thế nào gọi là tam-muội an trụ? Nhờ tu tập được bốn định nêu trên, tâm được an trụ và khéo duy trì, không nhiễm trần cảnh. Cũng như mùa hè, khách bộ hành đi xuyên qua sa mạc, gặp nhiều khó khăn, cổ hóc, da phồng, không chịu được nữa, bỗng gặp nước ngọt phún lên từ núi, trải mình trong nước, không còn nóng bức, thân tâm thư thái, thì chánh định đó gọi là “an trụ”. Nhập được định này, xa lìa hoặc chướng, hướng đến giác ngộ, mau đạt quả vị Bồ-tát Thập địa.
Bấy giờ trong hội, tất cả mọi người nghe được kinh này vô cùng hoan hỷ, phát tâm vô thượng, hướng đến giác ngộ, chánh đẳng chánh giác. Chín vạn tám nghìn các vị Bồ-tát đều chứng đắc được đại hoan hỷ địa.
Nam-mô Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật.