Thiên Thân bồ tát tạo luận
Ðời Diêu Tần, ngài tam tạng pháp sư Cưu Ma La Thập dịch & Quảng Minh dịch
Xem phần 1/2 – quyển thượng
Phẩm 7: Tỳ lê da ba la mật
Hàng bồ tát tu hành tinh tấn như thế nào? Hàng bồ tát tu hành tinh tấn là vì lợi mình, lợi người và cả hai đều lợi ích. Tinh tấn như vậy thì có thể trang nghiêm đạo bồ đề.
Bồ tát vì muốn điều phục chúng sanh khiến cho chúng sanh lìa xa khổ não mà tu tinh tấn. Người tu tinh tấn thì trong tất cả mọi thời thường siêng tu tập phạn hạnh [80]thanh tịnh, lìa bỏ tâm biếng nhác, giữ tâm không cho phóng dật, tâm thường tinh cần trọn không thối chuyển đối với những việc khó khăn, việc không lợi ích (cho mình và người). Ðây gọi là bồ tát sơ phát tâm tu tinh tấn.
Do tu tinh tấn mà thành tựu thiện pháp thế gian và quả thươïng diệu xuất thế gian, gọi là lợi mình. Giáo hoá chúng sanh khiến cho họ siêng năng tu thiện, gọi là lợi người. Ðem sự tu tập chánh nhân bồ đề của mình mà giáo hoá chúng sanh khiến họ đồng được lợi ích như mình, gọi là cả hai đều lợi ích.
Do chánh nhân tu tinh tấn mà thành tựu Chuyển thắng thanh tịnh diệu quả[81]û, siêu xuất các địa[82], cho đến mau thành chánh giác, gọi là trang nghiêm đạo bồ đề.
Tinh tấn có 2 lý do để phát khởi:
- Vì cầu đạo Vô thượng.
- Vì rộng muốn cứu độ các khổ não của chúng sanh.
Bồ tát phải thành tựu 10 niệm mới có thể phát tâm cần hành tinh tấn. Mười niệm như thế nào?
- Niệm Phật, (vì Phật có) vô lượng công đức[83].
- Niệm pháp, (vì pháp có công năng) giải thoát bất tư nghị[84].
- Niệm tăng, (vì tăng có nghĩa là) thanh tịnh, vô nhiễm[85].
- Niệm hành đại từ, vì an lập chúng sanh.
- Niệm hành đại bi, vì cứu tế các khổ.
- Niệm chánh định tụ[86], vì khuyến vui tu thiện.
- Niệm tà định tụ[87], vì cứu chúng sanh khiến trở về bản thể.
- Niệm loài ngạ quỷ đói khát, nhiệt não.
- Niệm loài súc sanh chịu hoài các khổ.
- Niệm cảnh địa ngục chịu đủ thiêu đốt.
Bồ tát phải tư duy 10 niệm như vậy: công đức Tam bảo ta nên tu tập; từ bi, chánh định tụ ta nên khuyên gắng; chúng sanh tà định, ba đường ác khổ ta nên cứu độ. Tư duy như vậy, chuyên niệm không loạn, ngày đêm cần tu, không có dừng bỏ. Ðây gọi là khả năng phát khởi chánh niệm tinh tấn.
Bồ tát tinh tấn lại có 4 việc, nghĩa là tu hành bốn cách chánh cần:
- Ác pháp chưa sanh, ngăn ngừa không cho sanh khởi.
- Ác pháp đã sanh, phải sớm đoạn trừ.
- Thiện pháp chưa sanh, tạo mọi phương tiện làm cho sanh khởi.
- Thiện pháp đã sanh, tu tập thêm lớn đầy rộng.
Bồ tát tu bốn cách chánh cần như vậy không có dừng nghỉ, đây gọi là tinh tấn. Cần tu tinh tấn thì có thể phá trừ được tất cả phiền não giới, tăng trưởng chánh nhân Vô thượng bồ đề.
Bồ tát nếu có khả năng chịu đựng tất cả khổ lớn nơi thân tâm và vì muốn an lập chúng sanh mà tu hành không mệt mỏi, đây gọi là tinh tấn. Bồ tát xa lìa ác thời[88], thói dua nịnh quanh co, tà tinh tấn để tu chánh tinh tấn, nghĩa là tu chánh tín, bố thí, trì giới, nhẫn nhục, thiền định, trí tuệ [89], từ bi hỷ xả. Những việc muốn làm, đã làm, đang làm, phải hết lòng làm, tinh cần thực thi, không có hối tiếc. Ðối với các thiện pháp và việc cứu khổ chúng sanh thì coi như việc cứu lửa cháy đầu, tâm không thối chuyển, đây gọi là tinh tấn.
Bồ tát dẫu không tiếc thân mạng, nhưng nếu vì cứu vớt các khổ, cứu hộ chánh pháp thì phải cần trân qúi nó, không bỏ oai nghi, thường tu thiện pháp. Khi tu thiện pháp, tâm không giãi đãi; khi mất thân mạng, không bỏ chánh pháp. Ðây gọi là bồ tát tu đạo bồ đề, cần hành tinh tấn.
Người biếng nhác thì không khi nào có thể làm được việc bố thí, không thể trì giới, nhẫn nhục các khổ, cần hành tinh tấn, nhiếp tâm niệm định, phân biệt thiện ác. Cho nên nói rằng, sáu pháp ba la mật do tinh tấn mà được tăng trưởng. Nếu hàng bồ tát ma ha tát tu tập tinh tấn làm duyên tố tăng thượng thì có thể mau đắc Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Bồ tát phát đại trang nghiêm (bồ đề) mà phát khởi tinh tấn, có 4 nguyên do:
- Phát đại trang nghiêm.
- Tích tụ mạnh mẽ.
- Tu các thiện căn.
- Giáo hoá chúng sanh.
Bồ tát phát đại trang nghiêm như thế nào? Ðối với các đường sanh tử, tâm thường kham nhẫn, không kể kiếp số. Dù trải qua vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức na do tha hằng hà sa a tăng kỳ kiếp mới thành Phật đạo, thì tâm cũng không mệt mỏi. Ðây gọi là hạnh không giãi đãi vì trang nghiêm (bồ đề).
Bồ tát muốn tích tụ mạnh mẽ mà phát khởi tinh tấn. Nếu lửa dữ đầy trong cõi tam thiên đại thiên thế giới, nhưng vì thấy Phật, vì nghe pháp, vì an trú chúng sanh nơi thiện pháp, thì cần phải từ trong lửa dữ kia mà vượt qua. Vì muốn điều phục chúng sanh mà tâm khéo an trú trong đại bi. Ðây gọi là tinh tấn mạnh mẽ.
Bồ tát muốn tu tập thiện căn mà phát khởi tinh tấn. Tất cả thiện căn được phát khởi đều vì hồi hướng Vô thượng chánh đẳng chánh giác, vì muốn thành tựu nhất thiết trí[90]. Ðây gọi là tinh tấn tu tập thiện căn.
Bồ tát muốn giáo hoá chúng sanh mà phát khởi tinh tấn. Chủng tánh của chúng sanh không thể tính kể, vô lượng vô biên, bằng hư không giới. Bồ tát lập thệ rằng, ta sẽ độ họ không có thiếu sót. Bồ tát vì muốn hoá độ chúng sanh mà cần hành tinh tấn. Ðây gọi là tinh tấn giáo hoá chúng sanh.
Tóm lại mà nói, bồ tát tu trợ đạo công đức, trợ vô thượng trí tuệ, tu tập Phật pháp mà phát khởi tinh tấn. Những công đức của Phật thì vô lượng vô biên, bồ tát ma ha tát phát đại trang nghiêm, tu hành tinh tấn cũng lại như vậy, vô lượng vô biên. Bồ tát ma ha tát tu hành tinh tấn, chẳng rời dục tâm[91] là vì cứu vớt các khổ. Ðây gọi là đầy đủ Tỳ lê da ba la mật.
Phẩm 8: Thiền na ba la mật
Hàng bồ tát tu tập thiền định như thế nào? Hàng bồ tát tu tập thiền định vì lợi mình, lợi người và cả hai đều lợi ích. Tu tập thiền định như vậy thì có thể trang nghiêm đạo bồ đề.
Bồ tát vì muốn điều phục chúng sanh khiến chúng sanh xa lìa khổ não mà tu tập thiền định. Người tu thiền định phải khéo nhiếp tâm mình, tất cả loạn tưởng không cho vọng khởi. Khi đi đứng ngồi nằm phải buộc sự nhớ nghĩ của mình ở nơi hiện cảnh[92]. Quán sát thuận nghịch từ đầu lâu, cổ, xương sống, cánh tay, khuỷu tay, ngực, xương sườn, xương chậu, xương đùi, cẳng chân, cho đến mắt cá chân, tu tập An ban sổ tức[93]. ÐÂy gọi là bồ tát ban đầu tu tập định tâm.
Tu thiền định thì không tiếp nhận các điều ác, tâm thường an vui, gọi là tự lợi. Giáo hoá chúng sanh khiến họ tu chánh niệm, gọi là lợi tha. Do chỗ tu thanh tịnh tam muội của mình mà lìa được các ác giác quán[94], giáo hoá chúng sanh khiến họ đồng lợi ích như mình, gọi là cả hai đều lợi ích.
Do chánh nhân tu thiền định mà thu hoạch được bát giải thoát[95], cho đến chứng được Thủ lăng nghiêm tam muội[96], Kim cang tam muội[97], gọi là trang nghiêm đạo bồ đề.
Thiền định do 3 pháp mà sanh khởi. Thế nào là ba?
- Văn tuệ.
- Tư tuệ.
- Tu tuệ.
Từ ba pháp này dần dần sanh khởi tất cả tam muội.
Thế nào là văn tuệ? Ðối với giáo pháp được nghe, tâm thường vui thích (tiếp nhận). Lại khởi niệm rằng, các pháp vô ngại giải thoát … của Phật đều do đa văn mà được thành tựu. Khởi niệm này rồi, trong tất cả thời gian cầu pháp càng thêm tinh cần, ngày đêm thường ưa nghe pháp, không có chán đủ. Ðây gọi là văn tuệ.
Thế nào là tư tuệ? Suy niệm, quán sát các pháp hữu vi như thật tướng (của nó), nghĩa là các pháp thì vô thường, khổ, không, vô ngã, bất tịnh, niệm niệm sanh diệt, không lâu sẽ hư hoại. Chúng sanh bị ràng buộc trong lo buồn, khổ não, yêu ghét, chỉ vì lửa tham sân si thiêu đốt, để rồi chồng chất thêm lên khổ não đời sau. Tất cả đều không có thật tánh, cũng như huyễn hoá. Thấy như vậy rồi, đối với tất caû các pháp hữu vi liền sanh tâm chán ngán muốn thoát ly, do vậy càng thêm tinh cần cầu trí tuệ Phật. Và suy nghĩ rằng, trí tuệ của Như lai không thể nghĩ bàn, không thể so lường, có thế lực lớn, không ai hơn được, như năng lực hoá làm một cái thành lớn đem đến sự không sợ, sự yên ổn, không còn muốn lui về[98], như năng lực cứu vô lượng khổ não cho chúng sanh. Biết như vậy thời thấy Phật có vô lượng trí và thấy pháp hữu vi là vô lượng khổ não, vì thế phát khởi chí nguyện thẳng cầu đại thừa vô thượng. Ðây gọi là tư huệ.
Thế nào là tu tuệ? Từ khi bắt đầu tu bạch cốt quán[99] cho đến khi thành Vô thượng chánh đẳng chánh giác, đều gọi là tu huệ. Ly dục, ly bất thiện pháp[100], có giác có quán[101], hỷ lạc do ly dục sanh[102], nhập vào sơ thiền. Diệt giác và quán (của sơ thiền), nội tâm thanh tịnh, định tâm lại một chỗ, không giác không quán[103], với hỷ và lạc do định sanh[104], nhập vào nhị thiền. Vì ly hỷ ở nhị thiền mà hành xả[105], tâm niệm an nơi tueä [106], thân cảm lạc thọ, một trạng thái mà các bậc hiền thánh tuyên bố rằng người đó có thể xaû, thường sống trong chánh niệm, trú trong an lạc [107], nhập vào tam thiền. Với sự đoạn khổ đoạn lạc[108], với sự diệt trừ từ trước của ưu hỷ[109], bất khổ bất lạc [110], có sự thanh tịnh của niệm nhờ xả[111], nhập vào tứ thiền. Vượt qua tất cả sắc tướng, diệt tất cả tướng có tính ngăn ngại[112], không nghĩ nhớ tất cả tướng dị biệt, biết (thân và cảnh như) hư không voâ biên, liền nhập Hư không vô sắc định xứ[113]. Vượt qua tất cả hư không tướng, biết không có (biên giới của) thức, liền nhập Vô sắc thức định xứ[114]. Vượt qua tất cả thức tướng, biết không có sở hữu[115], liền nhập Vô sở hữu Vô sắc định xứ[116]. Vượt qua tất cả cõi không có sở hữu, biết chẳng phải có tưởng, chẳng phải không tưởng, an ổn, liền nhập Vô sắc phi hữu tưởng, phi vô tưởng xứ [117]. Chỉ tuỳ thuận giáo pháp mà tu hành[118] nhưng không ưa đắm[119], cầu vô thượng thừa, thành tối chánh giác. Ðây gọi là tu huệ.
Bồ tát từ văn, tư, tu huệ này maø tinh cần nhiếp tâm thì có thể thành tựu Thông minh thiền[120], các tam muội và thiền na ba la mật.
Lại nữa, bồ tát tu định lại có 10 pháp hạnh, không giống pháp hạnh của hàng thanh văn, bích chi Phật. Những gì là 10?
- Tu định là không có cái ngã “tôi đây”õ, vì đầy đủ các pháp thiền định của Như lai.
- Tu định là không vướng mắc, vì xả ly nhiễm tâm, không cầu an vui cho mình.
- Tu định là đủ các thông nghiệp[121], vì biết các tâm hành [122]của chúng sanh.
- Tu định là biết các loại tâm tánh, vì độ thoát tất cả chúng sanh.
- Tu định là thực hành đại bi, vì đoạn trừ phiền não kết.
- Tu định là tu các thiền tam muội, vì phải khéo biết nhập xuất, vượt khỏi tam giới.
- Tu định là thường được tự tại, vì đầy đủ hết thảy thiện pháp.
- Tu định là tâm mình tịch diệt, vì hơn hẳn các thiền tam muội của nhị thừa.
- Tu định là thường ngộ nhập trí tuệ, vì vượt qua các pháp thế gian đến bờ giác kia.
- Tu định là có khả năng làm cho chánh pháp hưng thịnh, vì tiếp nối rạng rỡ ngôi tam bảo, không cho đoạn tuyệt.
Pháp hạnh tu định như vậy là không giống pháp hạnh tu định của hàng thanh văn, bích chi Phật.
Lại nữa, vì muốn biết tất cả phiền não, tâm tưởng của chúng sanh nên tu tập caùc pháp thiền định trợ thành trụ tâm, để thiền định này trụ bình đẳng tâm, gọi đó là định. Bình đẳng định như vậy tức là bình đẳng nơi không, vô tướng, vô nguyện, vô tác. Không, vô tướng, vô nguyện, vô tác bình đẳng thì chúng sanh bình đẳng. Chúng sanh bình đẳng thì các pháp bình đẳng. Thể nhập các pháp bình đẳng như vậy gọi là định.
Lại nữa, bồ tát lúc nhập thế tu hành nhưng không tạp nhiễm thế gian, khi xả thế nhập pháp thì diệt tất cả kết sử, xa lìa chỗ ồn náo, ưa ở một mình. Bồ tát tu hành thieàn định như vậy thì tâm an, dừng trụ, lìa xa thế sự.
Lại nữa, bồ tát tu định được đầy đủ các pháp thông, trí, phương tiện và tuệ. Thế nào là thông? Thế nào là trí? Khi thấy sắc tướng, khi nghe âm thanh, biết được tâm người, nhớ được quá khứ, có thể đi đến khắp các thế giới chư Phật, đây gọi là thông. Biết sắc tức pháp tánh[123], hiểu rõ âm thanh, tâm hành, biết tánh tướng tịch diệt, ba đời bình đẳng, biết thế giới chư Phật đồng như hư không tướng, chẳng có quả chứng diệt tận, đây gọi là trí. Thế nào laø phương tiện? Thế nào là tuệ? Khi nhập thiền định, khởi đại từ bi, không xả thệ nguyện, tâm như kim cang, quán sát thế giới của chư Phật để trang nghiêm bồ đề đạo tràng. Ðây gọi là phương tiện. Tâm thường vắng lặng, không thấy có ngã, không thấy có chúng sanh, tư duy thể tánh của các pháp vốn không loạn động, thấy thế giới chư Phật đồng với hư không, quán chỗ trang nghiêm đồng với tịch diệt. Ðây gọi là tuệ.
Ðây gọi bồ tát tu hành thiền định. Thông, trí, phương tiện, tuệ là bốn pháp sai khác, nhưng neáu cùng thực hành cả bốn thì được gần với quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Bồ tát ma ha tát tu hành thiền định khoâng còn thừa ác tâm[124], vì biết các pháp vốn bất động. Ðây gọi là đầy đủ thiền na ba la mật.
Phẩm 9: Bát Nhã Ba La Mật
Hàng bồ tát tu tập trí tuệ như thế nào? Hàng bồ tát tu tập trí tuệ vì lợi mình, lợi người và cả hai đều lợi ích. Tu tập trí tuệ như vậy thì có thể trang nghiêm đạo bồ đề.
Bồ tát vì muốn điều phục chúng sanh khiến lìa khổ não mà tu tập trí tuệ. Người tu tập trí tuệ tất yếu phải học tất cả việc thế gian, phải xả tham sân si, thiết lập từ tâm, thương xót làm lợi ích cho tất cả chúng sanh, thường nghĩ việc cứu giúp chúng sanh mà làm người dẫn đường, coù thể phân biệt nói rõ chánh đạo, tà đạo, thiện báo, ác báo. Ðây gọi là bồ tát ban đầu tu tập trí tuệ.
Do tu trí tuệ mà xa lìa vô minh, trừ được phiền não chướng và trí tuệ chướng[125], gọi là tự lợi. (Dùng trí tuệ) giáo hoá chúng sanh khiến họ tự điều phục tâm, gọi là lợi tha. Ðem sự tu tập (trí tuệ) hướng về Vô thượng bồ đề của mình, giáo hoá chúng sanh khiến họ đồng được lợi ích như mình, gọi là cả hai đều lợi ích.
Do chánh nhân tu tập trí tuệ mà chứng được sơ địa cho đến tát bà nhã trí[126], gọi là trang nghiêm đạo bồ đề.
Bồ tát tu hành trí tuệ có 20 tâm mà có thể từ từ thiết lập. Hai mươi tâm như thế nào?
- Tâm phát khởi thiện dục [127], thân cận thiện hữu.
- Tâm xả ly kiêu mạn, không cho phóng dật.
- Tâm tuỳ thuận giáo hoá, vui thích nghe pháp.
- Tâm nghe pháp không chán, khéo léo suy tư.
- Tâm hành tứ phạm hạnh[128], tu tập chánh trí[129].
- Tâm quán bất tịnh hạnh[130], ý niệm chán lìa.
- Tâm quán tứ chân đế, sanh 16 thánh tâm[131].
- Tâm quán 12 nhân duyên, tu tập minh tuệ[132].
- Tâm nghe các ba la mật, nhớ muốn tu tập.
- Tâm quán vô thươøng, khổ, không, vô ngã, tịch diệt.
- Tâm quán không, vô tướng, vô nguyện, vô tác.
- Tâm quán ấm, giới, nhập, có nhiều tội lỗi.
- Tâm hàng phục phiền não, chẳng phải người bạn đồng hành.
- Tâm gìn giữ các thiện pháp, như là người bạn đồng hành.
- Tâm kiềm chế ác pháp, muốn đoạn trừ hẳn.
- Tâm tu tập chánh pháp, mong thêm rộng lớn.
- Tâm tuy tu pháp nhị thừa, thường ưa xả ly.
- Tâm nghe bồ tát tạng, vui vẻ phụng hành.
- Tâm lợi mình lợi người, tuỳ thuận tăng tiến các thiện nghiệp.
- Tâm nắm giữ hạnh chân thật, cầu tất cả Phật pháp.
Lại nữa, bồ tát tu hành trí tuệ lại có 10 pháp khéo tư duy, không cùng với pháp tu của hàng thanh văn, bích chi Phật. Mười pháp như thế nào?
- Tư duy phân biệt căn bản định và căn bản tuệ[133].
- Tư duy không có xả đoạn thường nhị biên[134].
- Tu duy nhân duyên sanh khởi các pháp.
- Tư duy vô ngã, vô nhân, vô chúng sanh, vô thọ giả[135].
- Tư duy các pháp không có ba đời: quá khứ, vị lai, hiện tại.
- Tu duy không phát khởi gì cả, không tu hành gì cả, nhưng không đoạn nhân quả.
- Tư duy các pháp vốn không nhưng phải trồng thiện căn, không biếng nhác.
- Tư duy vô tướng nhưng vẫn độ chúng sanh không bỏ sót.
- Tư duy vô nguyện nhưng lại cầu bồ đề không lìa xa.
- Tư duy vô tác mà hiện tại thọ thân không chối bỏ.
Lại nữa, bồ tát lại có 12 pháp môn khéo nhập. Những gì là mười hai?
- Khéo nhập không, vô tướng, vô nguyện tam muội[136] nhưng không thủ chứng.
- Khéo nhập các thiền tam muội nhưng chẳng tuỳ thiền sanh[137].
- Khéo nhập các thông trí nhưng không chứng pháp vô lậu.
- Khéo nhập pháp nội quán nhưng không chứng quyết định[138].
- Khéo nhập quán tất cả chúng sanh không tịch nhưng không xả đại từ.
- Khéo nhập quán tất cả chúng sanh vô ngã nhưng không xả đại bi.
- Khéo nhập sanh vào ác thú nhưng chẳng phải do nghiệp lực sanh.
- Khéo nhập ly dục nhưng chẳng chứng pháp ly dục.
- Khéo nhập xả dục lạc nhưng không xả pháp lạc.
- Khéo nhập xả tất cả hý luận[139], các sự hiểu biết nhưng không xả phương tiện và các pháp quán.
- Khéo nhập suy tư pháp hữu vi nhiều tội khổ, nhưng không xảhữu vi.
- Khéo nhập pháp vô vi thanh tịnh viễn ly, nhưng không trụ vô vi.
Bồ tát có thể tu tập tất cả “thiện nhập pháp môn” tức là có thể khéo ngộ giải cái không, cái vô sở hữu của ba đời. Quán được như vậy gọi là quán tam thế không, là có sức trí tuệ vậy. Ở nơi ba đời chư Phật mà gieo trồng vô lượng công đưùc, thảy đều đem hồi hướng Vô thượng bồ đề, đây gọi là bồ tát khéo quán tam thế phương tiện.
Lại nữa, quán pháp quá khứ đã qua và không thể đi đến vị lai, nhưng thường tu thiện căn, tinh cần không giãi đãi. Quán pháp vị lai tuy chưa sanh khởi nhưng không bỏ tinh tấn, nguyện hướng bồ đề. Quán pháp hiện tại tuy niệm niệm sanh dieät nhưng không quên tâm mình, phát nguyện hướng về bồ đề. Ðây gọi là bồ tát tu quán tam thế phương tiện, rằng: quá khứ đã diệt, vị lai chưa đến, hiện tại không dừng. Quán như vậy cũng có nghĩa là quán sát về tâm vương, tâm sở luôn sanh diệt, tan hoại, nhưng thường không bỏ việc tích chứa thiện căn và các pháp trợ bồ đề. Ðây gọi là bồ tát tu quán tam thế phương tiện.
Lại nữa, bồ tát quán tất cả thiện, bất thiện, ngã, vô ngã, thật, bất thật, không, bất không, thế đế, chân đế, chánh định, tà định, hữu vi, vô vi, hữu lậu, vô lậu, hắc pháp, bạch pháp, sanh tử, niết bàn, toàn là thể tánh như thế của pháp giới: nhất tướng, vô tướng, và trong đó không có pháp vô nào có thể gọi là voâ tướng, cũng không có pháp hữu nào để làm vô tướng[140]. Ở đây gọi hết thảy pháp ấn là bất khả hoại ấn. Ở trong pháp ấn ấy cũng không có cái tướng của ấn, gọi là chân thật trí tuệ, phương tiện, bát nhã ba la mật. Bồ tát ma ha tát phát bồ đề tâm nên học như vậy, nên hành như vậy. Hành được như vậy liền gần với quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Bồ tát ma ha tát tu hành trí tuệ mà tâm vô sở hành[141], vì pháp tánh vốn thanh tịnh. Ðây gọi là đầy đủ bát nhã ba la mật.
Phẩm 10: Như Thật Pháp Môn
Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân tu tập sáu ba la mật để cầu Vô thượng chánh đẳng chánh giác thì phải xa lìa bảy pháp. Những gì là bảy?
- Lìa ác tri thức. Ác tri thức là người dạy ta lìa bỏ thượng tín, thượng dục, thươïng tinh tấn, chỉ huân tập các tạp hạnh.
- Lìa nữ sắc, tham đắm, ham muốn, những thói quen của người đời, nhưng vẫn cùng làm việc với họ.
- Lìa những ác giác, không nên nhìn ngắm hình dung của mình, sanh tâm tham tiếc, quý trọng, say đắm, cố giữ gìn nó vì cho rằng có thể giữ gìn được lâu.
- Lìa sự giận dữ, bốc đồng, ghen ghét, gây ra tranh cãi và làm hại loạn thiện tâm người khác.
- Lìa tâm phoùng dật, kiêu mạn, biếng nhác, ỷ mình có chút điều thiện mà khinh miệt người khác.
- Lìa nhưõng sách luận ngoại đạo, văn chương thế tục, lời lẽ trau chuốt. Chẳng phải lời Phật dạy thì không nên ca ngợi.
- Không nên gần gũi tà kiến, ác kiến.
Bảy pháp như vậy phải nên xa lìa. Ðức Phật dạy rằng, sẽ không tìm thấy một pháp nào khác chướng sâu Phật đạo ngoài bảy pháp này. Cho nên bồ tát cần phải xa lìa.
Nếu muốn mau chứng Vô thượng bồ đề thì phải tu bảy pháp. Những gì là bảy?
- Bồ tát nên gần gũi thiện tri thức. Thiện tri thức chính là chư Phật và chư bồ tát. Nếu có vị thanh văn hay người nào có thể dạy cho người đang tu bồ tát đạo trụ sâu vaøo pháp tạng (của bồ tát) và các pháp ba la mật thì cũng gọi là thiện tri thức bồ tát vậy.
- Bồ tát cần phải gần gũi hàng xuất gia, cũng phải gần gũi chốn a lan nhã, lìa khỏi nữ sắc vaø các ham muốn. Tuy không tập nhiễm thói đời nhưng vẫn tuỳ việc cộng tác.
- Bồ tát cần phải tự quán thân mình như phân đất, nhơ nhớp đủ loại, tập hợp của gió lạnh, máu nóng[142], không thể tham đắm, ngày qua đến chết, nên nghĩ chán lìa, tinh cần tu đạo.
- Bồ tát cần phải thường hành hoà nhẫn, cung kính, nhu thuận, cũng phải khuyến hóa mọi người trụ vào pháp nhẫn.
- Bồ tát cần phải tu tập tinh tấn, thường sanh hổ thẹn, kính thờ sư trưởng, thương xót kẻ nghèo cùng hạ đẳng, thấy người bị nguy khốn đem thân chịu thayï.
- Bồ tát cần phải tu tập các phaùp phương đẳng đại thừa và bồ tát tạng, thọ trì, đọc tụng những pháp đươïc Phật ca ngợi.
- Bồ tát cần phải gần gũi tu tập đệ nhất nghĩa đế, nghĩa là thật tướng của các pháp là nhất tướng[143], vô tướng[144].
Nếu hàng bồ tát muốn mau chóng chứng Vô thươïng bồ đề thì phải gần gũi bảy pháp như vậy.
Lại nữa, nếu người phát bồ đề tâm, đem chỗ sở đắc của mình có được trong vô lượng a tăng kỳ kiếp tu tập các pháp như: từ bi, hỷ xả, bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ, thì phải biết người đoù chưa lìa sanh tử, không hướng bồ đề. Vì sao vậy? Vì họ còn cái tâm thấy có sở đắc và còn cái thấy thủ đắc: thấy ấm, giới, nhập, thấy ngã, thấy nhân, thấy chúng sanh, thấy thọ mạng, thấy từ bi hỷ xả, thấy bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ và các kiến chấp khác. Tóm yếu mà nói, còn cái thấy Phật pháp tăng và cái thấy niết bàn. Cái thấy có thủ đắc như vậy là còn tâm chấp trước. Chấp trước cuõng gọi là tà kiến. Vì sao nói như vậy? Là vì người tà kiến bị luân chuyển trong tam giới, trọn không bao giờ ra khỏi tam giới. Người chấp trước cũng lại như vậy, trọn không bao giờ ra khỏi sự chấp tướng sai biệt, không thể thành tựu vô thượng bồ đề.
Nếu người phát bồ đề tâm thì cần phaûi quán sát cái tâm không tướng. Những gì là tâm? Sao gọi là vô tướng? Tâm là (tâm) ý thức, tức là thức ấm, ý nhập và ý giới[145]. Tâm không tướng là tâm không có tướng của tâm, cũng không có tác giả[146]. Vì sao vậy? Tướng của tâm là không, không có tác giả, không khiến ai là tác giả. Nếu không có tác giả thì không có tướng làm ra. Nếu bồ tát hiểu rõ pháp như vậy thì đối với tất cả các pháp không có chấp trước. Do không có chấp trước nên đối với các pháp thiện ác, hiểu rõ không có quả báo (thiện ác). Tu tập tâm từ thì hiểu rằng không có ngã. Tu tập tâm bi thì hiểu rằng không có chúng sanh. Tu tập tâm hỷ thì hiểu rằng không có mạng giả[147]. Tu tập tâm xả thì hiểu rằng không có nhân. Tuy hành bố thí nhưng không thấy có vật bố thí. Tuy hành trì giới nhưng không thấy tâm mình thanh tịnh. Tuy hành nhẫn nhục nhưng không thấy có chúng sanh để nhẫn nhục. Tuy hành tinh tấn nhưng không có tâm ly dục. Tuy hành thiền định nhưng không có tâm trừ ác. Tuy hành trí tuệ mà tâm vô sở hành. Ở trong tất cả duyên (tu tập) đều có trí tuệ nhưng không chấp trước vào trí tuệ, không có thủ đắc trí tuệ, không thấy mình có trí tuệ. Hành giả tu hành trí tuệ như vậy, không thấy có tu, không gì chẳng tu, vì giáo hoá chúng sanh hiện hành lục độ mà nội tâm thanh tịnh.
Hành giả khéo tu tâm mình như vậy thì trong khoảng một niệm đã trồng thiện căn, phước đức quả báo vô lượng vô biên, trăm ngàn muôn ức a tăng kỳ kiếp không thể cùng tận, tự nhiên được gần quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Phẩm 11: Không Vô Tướng
Thuở trước, bấy giờ đức Phật ở trong rừng trúc Ca lan đà cùng với hàng đại chúng nhiều vô lượng tập hội. Khi đó, đức Thế tôn tuyên bày chánh pháp, ngài bảo đại chúng rằng: Như lai đã nói về đặc tính vô tánh[148], không[149], vô sở hữu[150] của các pháp. Tất cả thế gian đối với những đặc tính này của các pháp rất khó tin, khó hiểu. Vì sao vậy?
Sắc không trói buộc vào cái gì nên cũng không cởi mở. Thọ, tưởng, hành, thức cũng không trói buộc và không cởi mở. Sắc là vô tướng[151], ly các tướng[152]. Thọ, tưởng, hành, thức là vô tướng, ly các tướng. Saéc là vô niệm[153], ly các niệm[154]. Thọ, tưởng, hành, thức là vô niệm, ly các niệm. Nhãn và sắc, nhĩ và thanh, tỷ và hương, thiệt và vị, thân và xúc, ý và pháp, cũng lại như vậy.
Không lấy, không bỏ, không dơ, không sạch, không đến, không đi, không trước, không sau, không tối, không sáng, không si mê, không trí tuệ, chẳng có bờ bên này, chẳng có bờ bên kia, cũng chẳng có dòng nước ở khoảng giữa hai bờ, chính gọi là không trói buộc. Vì không trói buộc, nên gọi là không. Không đó gọi là vô tướng. Vô tướng cũng không, nên gọi là không. Không đó là vô niệm. Vô niệm cũng không, nên gọi là không. Ý niệm về không cũng không, nên gọi là không[155]. Trong không, không có thiện, không có ác, cho đến cũng không có không tướng, nên gọi là không.
Bồ tát nếu biết như vậy tức là biết tánh của ấm, giới, nhập, thì không có thủ chấp, chính gọi là pháp nhẫn. Bồ tát do pháp nhẫn này mà được thọ ký nhẫn.
Các người con Phật, ví như có người ngữa mặt lên trời mà viết vào hư không, chép hết 12 bộ kinh[156]của Như lai, trải qua vô lượng kiếp. Khi Phật pháp đã diệt, người cầu pháp không thấy, không nghe chánh pháp, mà chỉ thấy, chỉ nghe chúng sanh điên đảo, tạo tội không cùng. Lại có một người trí tuệ thanh tịnh từ phương xa, thương xót chúng sanh, muốn rộng cầu Phật pháp, nên đi đến nơi này, thấy trong hư không có văn tự chép rất rõ ràng, thì liền biết ngay, rồi đọc tụng và thọ trì. Người đó đúng theo lời kinh chép mà thật hành, giảng rộng phân biệt cho chúng sanh được lợi ích. Người chép văn tự vào hư không và người thấy biết trong hư không có văn tự mới có thể mật biết với nhau, có thể truyền thông với nhau, rồi tu tập, thọ trì mà hướng dẫn chúng sanh khiến lìa những trói buộc.
Các người con Phật, đức Phật dạy rằng, lúc ở đời quá khứ, khi còn cầu đạo bồ đề, Ngài đã được gặp 33 ức 9 vạn 8 ngàn đức Phật. Lúc bấy giờ Ngài làm Chuyển luân thánh vương, đem tất cả nhạc khí cúng dường các đức Phật và các chúng đệ tử. Vì Ngài còn thấy có chỗ sở đắc nên không được các đức Phật thọ ký. Sau đó Ngài lại gặp 8 vạn 4 ngàn ức 9 vạn Bích chi Phật, cũng đem tứ sự[157] mà suốt đời cúng dường. Qua đây rồi, Ngài lại gặp 620 vạn 1261 đức Phật. Lúc bấy giờ, Ngài đều làm Chuyển luân thaùnh vương, đem tất cả nhạc khí mà suốt đời cúng dường. Sau khi các đức Phật diệt độ lại xây tháp bằng bảy báu để cúng dường xá lợi. Sau đó có các đức Phật ra đời, Ngài đều phụng ngưỡng, khuyến thỉnh chuyển pháp luân và cúng dường. Có trăm ngàn vạn ức đức Phật như vậy ra đời. Các đức Như lai này đều trụ trong pháp không mà nói các pháp tướng. Do Ngài còn có chỗ sở đắc nên cũng không được thọ ký. Lần lượt như vậy cho đến khi gặp được đức Phật Nhiên Ðăng ra đời, thấy Phật, nghe pháp, liền chứng được hết thảy vô sanh pháp nhẫn. Ðược pháp nhẫn này rồi mới được Phật Nhiên Ðăng thọ ký. Ðức Như lai Nhiên Ðăng trụ trong pháp không diễn nói các pháp tướng, độ thoát vô lượng trăm ngàn chúng sanh, nhưng không thấy có đối tượng diễn nói, không có đối tượng độ thoát.
Ðức Thích Ca Mâu Ni Thế tôn hiện ra nơi đời, trụ trong pháp không, diễn nói bằng văn tự để khai thị, giáo hoá lợi ích cho chúng sanh được vui mừng, đều được tiếp nhận mà tu hành, nhưng Ngài không thấy có khai thị, không thấy có chúng sanh tiếp nhận. Phải biết pháp tánh, pháp tướng ở đây rốt ráo không. Người chép văn tự vào hư không cũng không, người biết trong hư không có văn tự cũng không. Người thuyết pháp cũng không, người hiểu pháp cũng không. Từ xưa nay là không, vị lai cũng không, hiện tại cũng không. Tuy vậy các bồ tát nhờ tích tập vạn thiện, phương tiện lực, tinh cần không giãi đãi mà thành tựu công đức viên mãn, được quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Pháp không này thật rất là khó (ngộ nhập), không thể nghĩ bàn. Trụ trong pháp vô mà nói các pháp tướng, ở trong chỗ vô đắc[158] mà nói pháp hữu đắc. Những việc trên đây đều là cảnh giới của chư Phật, phải dùng vô lượng trí mới có thể hiểu nổi (chút phần), chẳng phải chỗ suy lường mà biết hết được.
Bồ tát mới phát ý, heát lòng kính ngưỡng, vui thích bồ đề, do tin lời Phật mà dần dần có khả năng ngộ nhập (cảnh giới của chư Phật). Vì sao gọi là tín? Tín quán tứ đế, trừ các phiền não vọng kiến thắt buộc, đắc A la hán. Tín quán thập nhị nhân duyên, diệt trừ vô minh sanh khởi các hành, đắc Bích chi Phật. Tín tu tứ vô lượng tâm, lục ba la mật, đắc Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Ðây gọi là Tín nhẫn.
Chúng sanh từ vô thỉ đến nay bị trầm luân sanh tử là do vọng tưởng, chấp trước, không thấy được pháp tánh, thì trước phải quán sát tự thân do ngũ uẩn hoà hợp, chúng sanh chỉ là giả danh; vì tự thân là vô ngã nên cũng không có chúng sanh. Vì sao vậy? Nếu thật có ngã thì ngã đó phải tự tại, nhưng chúng sanh thường bị sanh già bịnh chết nó xâm hại, không được tự tại, do đó biết rằng vô ngã. Vô ngã tức là vô tác giả. Vô tác giả thì cũng vô thọ giả. Pháp tánh là thanh tịnh, như thật thường trú. Quán sát như vậy chưa được rốt ráo thì gọi là Thuận nhẫn. Bồ tát tu Tín nhẫn và Thuận nhẫn rồi thì không bao lâu sẽ thành tựu Tối thượng pháp nhẫn[159].
Phẩm 12: Công Ðức Trì
Bồ tát tu hành đầy đủ tâm vô tướng, nhưng tâm chưa từng trụ nơi tác nghiệp, nghĩa là bồ tát đoái với các nghiệp tướng, biết mà cố làm. Bồ tát vì tu thiện căn, cầu bồ đề nên không xả hữu vi; vì các chúng sanh tu tâm đại bi nên không trụ vô vi; vì nhất thiết chân diệu trí của Phật nên không xả sanh tử; vì độ vô biên chúng sanh khiến không còn dư nên không trụ niết bàn. Ðây chính là hàng bồ tát ma ha tát thâm tâm cầu Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Các người con Phật, bồ tát thành tựu 10 pháp sau đây thì trọn không thối thất đạo Vô thượng bồ đề. Những gì là mười?
- Bồ tát thâm tín phát tâm cầu Vô thượng bồ đề, giáo hoá chúng sanh cũng phát tâm như vậy.
- Thường ưa thấy Phật, đem những vật quý báu của mình dâng lên cúng dường chư Phật để sâu trồng thiện căn.
- Vì cầu pháp nên đem tâm tôn kính cúng dường pháp sư, nghe pháp không chán.
- Nếu thấy các thầy tỳ kheo phá Tăng[160] ở hai bộ chúng[161] gây chuyện, tranh cãi lẫn nhau, gây tội lỗi cho nhau, thì phải cần cầu mọi phương tiện để cho hai bên hoà hợp.
- Nếu thấy quốc độ nào tà ác càng tăng, Phật pháp muốn hoại, thì phải thường đọc tụng, giải nói chánh pháp, nhẫn đến một bài kệ, để cho chánh pháp không đoạn dứt, chuyên tâm hộ pháp, không tiếc thân mạng.
- Thấy caùc chúng sanh bị đủ kinh sợ khổ não, làm sự cứu hộ, cho sự vô uý.
- Phát khởi tinh tấn tu hành để cầu các kinh pháp thậm thâm thuộc về phương đẳng đại thừa và bồ tát tạng.
- Ðã được các pháp này rồi thì phải thọ trì, đọc tụng, đúng như pháp mà thực hành, đúng như pháp mà an trú.
- Ðã an trú nơi pháp (phương đẳng đại thừa và bồ tát tạng) thì có thể khuyến khích, hướng dẫn cho nhiều chúng sanh khiến họ được dự vào trong pháp này.
- Vào trong pháp này rồi, thì có thể vì chúng sanh thuyeát giải, khai thị, giáo hoá, khuyến khích và tán thưởng cho họ, để rồi được ngộ nhập.
Bồ tát thành tựu được 10 pháp như vậy rồi, thì đối với đạo Vô thượng bồ đề trọn không thối thất. Bồ tát cần phải tu hành theo giáo nghĩa của kinh này. Giáo nghĩa của kinh điển (phương đẳng đại thừa và bồ tát tạng) như vậy không thể nghĩ bàn, nghĩa là nó có thể sanh khởi tất cả chủng tử đại từ bi. Kinh này có khả năng khai ngộ, dẫn dắt chúng sanh bị trói buộc đủ thứ, khiến cho họ phát bồ đề tâm. Kinh này là chánh nhân tu hành cho người hướng về bồ đề. Kinh này có khả năng thành tựu được tất cả hạnh vô động của bồ tát. Kinh này được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm cho.
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào muốn tinh cần tu tập Vô thượng bồ đề thì phải diễn giảng rộng rãi, truyền bá kinh điển như vậy nơi Diêm phù đề không cho đoạn dứt, làm cho vô lượng vô biên chúng sanh được nghe kinh này. Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào được nghe kinh này thì những người đó đều được lợi ích tức thời, được đại trí tuệ tụ không thể nghĩ bàn, được phước đức quả báo không thể so lường. Vì sao được như vậy? Vì kinh này có thể khai ngộ vô lượng huệ nhãn thanh tịnh, có thể khiến cho Phật chủng nối mãi không dứt, có thể cứu vô lượng khổ não của chúng sanh, có thể chiếu phá tất cả vô minh si ám, có thể phá trừ tứ ma[162] và các ma nghiệp[163], có thể làm hư hoại tất cả tà kiến của ngoại đạo, có thể diệt trừ lửa lớn phiền não, có thể làm tiêu mất nhân duyên sanh khởi các hành, có thể đoạn trừ sáu cưïc trọng bịnh của chúng sanh: đó là xan tham, phá giới, sân hận, giãi đãi, loạn ý và ngu si, có thể trừ nghiệp chướng, báo chướng, pháp chướng, phiền não chướng, chư kiến chướng, vô minh chướng, trí chướng, tập chướng.
Nói tóm lại, kinh này có khả năng tiêu diệt không sót tất cả ác pháp, có khả năng làm cho tăng trưởng mau chóng tất cả thiện pháp.
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe kinh này rồi hoan hỷ vui thích, sanh tâm hy hữu, phải biết người này đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, sâu trồng thiện căn. Vì sao nói vậy? Vì kinh này chính là chỗ thực thi của ba đời chư Phật, cho nên hành giả được nghe kinh này phải tự vui mừng rằng may thu hoạch sự thiện lợi lớn.
Nếu có người biên chép, đọc tụng kinh này phải biết người đó được phước báo vô lượng vô biên. Vì sao nói vậy? Vì kinh này là chỗ duyên khởi vô biên, là nơi hưng phát vô lượng đại thệ nguyện, để nhiếp thọ tất cả chúng sanh, để trang nghiêm Vô thượng đại bồ đề, cho nên được phước đức cũng lại như vậy, nghĩa là không có hạn lượng.
Nếu người nào có thể giải rõ nghĩa thú kinh này, đúng như pháp mà tu hành, thì tất cả chư Phật trong a tăng kỳ kiếp dùng vô tận trí nói về phước báo của người đó cũng không cùng tận. Nếu chỗ nào có pháp sư giảng thuyết kinh này, phải biết nơi đó liền nên xây tháp. Vì sao vậy? Vì chánh pháp chân thật từ nơi đó xuất sanh. Kinh này tuỳ ở quốc độ, thành ấp, tụ lạc, chùa miếu, tịnh xá nào, phải biết những nơi đó chính có pháp thân. Nếu có người nào cúng dường hoa hương, kỷ nhạc, lụa treo, tràng phan, bảo cái, ngâm ca, tán thán, chấp tay cung kính đối với kinh này, phải biết người đó đã nối tiếp Phật chủng, huống lại thọ trì đầy đủ kinh này. Những người đoù thành tựu công đức, trí tuệ, trang nghiêm (pháp thân), ở đời vị lai được Phật thọ ký, quyết định thành tựu Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Xem chú thích tại từng con số trong bài